An Giang: Đội ngũ trí thức ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số - động lực then chốt để phát triển tỉnh trong kỷ nguyên mới

(Cổng TTĐT tỉnh AG)- Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, mặc dù điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng nhờ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam, sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ các nhà khoa học, sự cố gắng của các doanh nghiệp và Nhân dân mà khoa học và công nghệ (KHCN) nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam; góp phần xây dựng hệ thống quan điểm phát triển đất nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hoá Việt Nam. Khoa học tự nhiên đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo cơ sở cho việc hình thành một số lĩnh vực KHCN đa ngành mới, góp phần nâng cao trình độ và năng lực của khoa học cơ bản. Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá và dịch vụ; cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; một số lĩnh vực đã tiếp cận trình độ tiên tiến khu vực và thế giới. Tiềm lực KHCN được nâng lên; Quản lý nhà nước về KHCN từng bước được đổi mới; Hệ thống pháp luật về KHCN được chú trọng hoàn thiện. Thị trường KHCN đã được hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh và chủ động hơn trong một số lĩnh vực, góp phần nâng cao năng lực, trình độ KHCN trong nước.

Bên cạnh đó, phát triển KHCN luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm trong suốt thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Sau gần 30 năm thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 của Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển KHCN trong thời kỳ công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) và nhiệm vụ đến năm 2000, hơn 13 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hội nhập quốc tế (Nghị quyết số 20-NQ/TW), gần 06 năm thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị khóa XIII về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, hơn 01 năm thực hiện Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/01/2024 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển KHCN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế và gần 12 năm thực hiện Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 đã minh chứng cho việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, tổ chức Đảng, sự chung sức, đồng lòng của các nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp và toàn dân mà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn trong thời gian qua. Tuy nhiên, hoạt động KHCN nhìn chung còn chưa tương xứng với tiềm năng, nhu cầu phát triển của đất nước, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH); Việc huy động nguồn lực của xã hội vào hoạt KHCN được chú trọng, nhưng hiệu quả chưa cao... Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ KHCN tuy có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn một số bất cập. Cơ chế quản lý hoạt động KHCN tuy có nhiều đổi mới mạnh mẽ nhưng vẫn còn một số điểm nghẽn cần khắc phục... Công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển KHCN từng bước gắn với nhiệm vụ phát triển KT-XH nhưng vẫn còn chậm khi triển khai; Thị trường KHCN tuy được quan tâm, thúc đẩy nhưng vẫn còn chậm so với nhu cầu thực tiễn; một số lĩnh vực KHCN chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý. 

Song song đó, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức còn bất cập, hạn chế; một số nội dung của Nghị quyết chậm được thể chế; chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ; thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức, nhất là bộ phận trí thức “tinh hoa”, các nhà khoa học, nhà văn hoá lớn. Cơ cấu, số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức chưa hợp lý, thiếu hụt chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quan trọng; chưa tạo được môi trường thuận lợi động viên trí thức chủ động nghiên cứu, ứng dụng KHCN, truyền thụ kiến thức, tư vấn, phản biện xã hội; việc xây dựng đội ngũ trí thức chưa gắn với mục tiêu, nhiệm vụ của từng ngành, địa phương. Chưa xây dựng được Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước...

Nhận thấy được những tồn tại, hạn chế nêu trên, tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới và ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị khoá XIII ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) quốc gia, đây là đường lối, chủ trương, định hướng tầm chiến lược của Đảng ta về phát triển KHCN trong giai đoạn mới và lần đầu tiên bộ ba “KHCN - ĐMST - CĐS” đi chung, gắn kết với nhau trong một Nghị quyết của Đảng ta.

Lễ Họp mặt và tôn vinh “Trí thức khoa học và công nghệ tiêu biểu tỉnh An Giang” năm 2025 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang tổ chức ngày 15/5/2025

1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu, ngang tầm nhiệm vụ để phát triển đất nước

Qua hơn 85 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, Đảng ta luôn coi trọng và xem đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam; là lực lượng có vai trò quan trọng trong liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; có trách nhiệm tiên phong, tạo ra sản phẩm tinh thần, vật chất chất lượng cao cho xã hội, là nguồn lực đặc biệt trong phát triển kinh tế tri thức, CNH, HĐH, hội nhập quốc tế và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp “nguyên khí quốc gia” và phát triển bền vững; là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước Việt Nam, hệ thống chính trị và xã hội. Chú trọng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và trí thức An Giang nói riêng, kể cả trí thức trong và ngoài nước, có cơ chế, chính sách đột phá thu hút, trọng dụng trí thức, đặc biệt là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành và nhân tài của đất nước; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lớp trí thức trẻ, kế cận. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng, học thuật, thực hành dân chủ trong hoạt động nghiên cứu KHCN, ĐMST của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tạo môi trường, điều kiện và động lực để phát huy vai trò, sự cống hiến đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí thức. 

Qua 12 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc đến nay, đến kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, trên cơ sở kế thừa những quan điểm chiến lược trước đây, với định hướng và tầm nhìn chiến lược mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và thu hút nhân tài. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã nêu: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”. Những chủ trương, định hướng tầm chiến lược tại kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cho thấy quan điểm đúng đắn, xuyên suốt của Đảng ta về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu, ngang tầm nhiệm vụ để phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, điều này càng khẳng định rõ hơn quan điểm và tầm nhìn đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam về mục tiêu, chiến lược phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và trí thức An Giang nói riêng trong nền kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia hiện nay của nước ta để thích ứng nhanh với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới và xu thế của thời đại công nghiệp lần thứ Tư.

2. Thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam và tỉnh An Giang trước yêu cầu đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS

Sau gần 80 năm thành lập nước Việt Nam đến nay, đội ngũ trí thức Việt Nam được xây dựng, trưởng thành, phát triển khá toàn diện cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, hệ thống Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã có 156 hội thành viên (gồm 63 Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 93 hội ngành toàn quốc), gần 600 tổ chức KHCN, hình thành một mạng lưới các tổ chức thành viên và trực thuộc rộng khắp cả nước đa ngành, đa lĩnh vực; tập hợp, thu hút được khoảng 3,7 triệu hội viên, trong đó có khoảng 2,2 triệu hội viên trí thức, chiếm gần một phần ba số trí thức trong cả nước. Tại tỉnh An Giang, tính đến 4/2025, trong số hơn 2,2 triệu hội viên trí thức của cả nước, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. Theo thống kê, An Giang có 27.928 người có trình độ cao đẳng trở lên (25.163 người có trình độ đại học và sau đại học); có 2.682 cán bộ khoa học, kỹ thuật có trình độ sau đại học; cán bộ lãnh đạo Đảng, đoàn thể có 558 người từ phó trưởng phòng cấp huyện trở lên; cán bộ lãnh đạo chính quyền có 182 người từ phó trưởng phòng cấp huyện trở lên; cán bộ hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ có 2.018 người. Sau hơn 18 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW và gần 03 năm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW, đội ngũ trí thức của Tỉnh tham gia thực hiện 730 chương trình, dự án, đề tài khoa học công nghệ (366 chương trình, dự án, đề tài cấp tỉnh và 364 đề tài cấp cơ sở), góp phần tăng cường hàm lượng khoa học, công nghệ đối với các sản phẩm chủ lực, nâng cao giá trị sản phẩm hàng hoá của Tỉnh. Tính đến tháng 6/2024, toàn Tỉnh có hơn 118 tiến sĩ và chuyên khoa II, hơn 1.020 thạc sĩ và chuyên khoa I. Đặc biệt, lực lượng trí thức đang công tác tại xã, phường, thị trấn tăng về số lượng và chất lượng, năm 2008 số cán bộ có trình độ đại học chiếm 60,8% thì sau năm 2023 tăng hơn 87,1% và trình độ lý luận chính trị có 319 cử nhân, cao cấp và 526 trung cấp. 

Trong thời gian qua, đội ngũ trí thức tỉnh An Giang có những đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực, qua đó góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như: (1) Trí thức lĩnh vực chính trị, là lực lượng tiên phong trong việc nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn để cung cấp những luận cứ khoa học khách quan, đề xuất hệ thống lý luận khoa học sát thực, tham mưu định hướng chiến lược cho Đảng, Nhà nước Việt Nam trong hoạch định chiến lược phát triển đất nước ở tầm vĩ mô cũng như ở từng lĩnh vực cụ thể; trực tiếp tham gia phản biện, đóng góp ý kiến về các chủ trương, đường lối, chính sách, chương trình, dự án, đề án phát triển đất nước và Tỉnh. (2) Trí thức lĩnh vực kinh tế, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư và phát triển nền kinh tế số, nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng then chốt cho mọi sự phát triển nói chung, quyết định tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, định hướng phát triển cho quốc gia, Tỉnh. (3) Trí thức lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hầu hết đạt chuẩn và trên chuẩn. Kỹ năng giảng dạy, trách nhiệm nghề nghiệp được nâng lên. Trường Đại học An Giang có đội ngũ cán bộ, giảng viên trình độ sau đại học chiếm 81,5%; năng động, sáng tạo; có nhiều công trình nghiên cứu, chuyển giao khoa học, công nghệ được ứng dụng vào sản xuất và có giá trị trong cuộc sống, đóng góp tích cực trong việc đào tạo nguồn nhân lực của Tỉnh và khu vực. (4) Trí thức lĩnh vực y tế, có trách nhiệm cao trong chăm sóc sức khỏe Nhân dân, thực hiện thành công nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao. An Giang là một trong những địa phương đầu tiên của cả nước triển khai hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh từ xa qua hệ thống robot. (5) Trí thức lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, cũng góp phần tích cực trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử, xây dựng và định hướng phát triển đời sống tinh thần của Nhân dân. (6) Trí thức lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, tổ chức và tham gia nhiều hoạt động, sự kiện văn hóa quy mô lớn; sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị, đạt giải cao tại các cuộc thi trong Tỉnh, khu vực, quốc gia và quốc tế góp phần quảng bá hình ảnh, con người và các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc của An Giang đến với nhiều người ở trong và ngoài nước. (7) Trí thức lĩnh vực doanh nghiệp, là lực lượng trực tiếp tiếp nhận và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị kỹ thuật và ứng dụng khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần khẳng định thương hiệu và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước; tham gia tích cực vào các hoạt động an sinh xã hội. (8) Trí thức lĩnh vực lực lượng vũ trang, có trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, chỉ huy đạt chuẩn quy định; tuyệt đối trung thành và chấp hành nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam; có ý thức cảnh giác, tổ chức kỷ luật cao; phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các địa phương, đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ.

Bên cạnh đó, trong những năm qua, Tỉnh đã quan tâm tổ chức thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam về ứng dụng, phát triển KHCN, ĐMST và CĐS; chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển KT-XH của Tỉnh. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có chuyển biến tích cực, gắn kết chặt chẽ với sản xuất và đời sống, kết quả các nhiệm vụ KHCN có đơn vị tiếp nhận, ứng dụng vào thực tiễn góp phần mang lại hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như phục vụ công tác quản lý các ngành, lĩnh vực; công tác thẩm định công nghệ các dự án đầu tư ngày càng đi vào nề nếp, góp phần ngăn chặn các công nghệ lạc hậu, lỗi thời vào Tỉnh; công tác quản lý nhà nước, triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa, bảo hộ tài sản trí tuệ, đảm bảo an toàn bức xạ và hạt nhân ngày càng đẩy mạnh, phát huy hiệu quả. Song song đó, sự đóng góp của “năng suất các nhân tố tổng hợp - TFP” vào tăng trưởng kinh tế: Tỷ trọng tăng TFP vào tăng trưởng kinh tế GRDP của Tỉnh luôn cao hơn so với mức bình quân chung của cả nước, giai đoạn 2011-2022 trung bình TFP đạt 4,42%/năm và mức đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế năm 2022 là 53,8%. Mức đóng góp nguồn kinh phí từ xã hội vào hoạt động KHCN giai đoạn 2021-2024 ước đạt 30%. Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ĐMST đạt 7,5 người/vạn dân. Công tác CĐS có sự quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực. Hạ tầng số được đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu, các nền tảng số, các hệ thống ứng dụng dùng chung được đưa vào vận hành hiệu quả, phục vụ tốt công tác quản lý, điều hành, kết nối với hệ thống các sở, ngành, địa phương, bước đầu đã đạt được các kết quả quan trọng. Quy mô kinh tế số Tỉnh năm 2023 chiếm 5,28% GRDP và năm 2024 chiếm 5,99% GRDP.

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được nêu trên, công tác phát triển KHCN, ĐMST và CĐS trên địa bàn Tỉnh vẫn còn những bất cập, hạn chế như: Tốc độ và sự bứt phá về phát triển KHCN, ĐMST và CĐS của Tỉnh còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ KHCN và ĐMST còn hạn chế; nghiên cứu, ứng dụng KHCN, ĐMST chưa có bước đột phá; cơ chế, chính sách về KHCN chưa hỗ trợ được nhiều cho các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh; hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại còn hạn chế, chưa được đầu tư đầy đủ, đồng bộ; CĐS, cải cách hành chính ở một số cơ quan, đơn vị còn chậm đổi mới; hiện tại Tỉnh chưa tạo được môi trường làm việc đủ sức hấp dẫn để thu hút những người có tài năng, đặc biệt là các chuyên gia đầu ngành về cống hiến cho Tỉnh. Bên cạnh những nguyên nhân khách quan, những bất cập, hạn chế nêu trên là do: (1) Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền, ngành trong tỉnh về KHCN, ĐMST và CĐS chưa đầy đủ và sâu sắc. (2) Nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. (3) Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, ĐMST của các cấp, các ngành còn chậm đổi mới, thiếu tập trung. (4) Nguồn lực của Tỉnh đầu tư cho KHCN, ĐMST và CĐS chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là ở các doanh nghiệp đầu tư cho KHCN và CĐS còn chưa được quan tâm đúng mức.

3. Tỉnh An Giang xác định mục tiêu về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045

Để thực hiện tốt Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia, tỉnh An Giang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xác định mục tiêu về đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 như sau: (1) Tiềm lực, trình độ KHCN và ĐMST thuộc nhóm các địa phương ở mức khá; trình độ, năng lực công nghệ, ĐMST của doanh nghiệp đạt mức cao hơn so với bình quân chung của cả nước; về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính quyền điện tử, Chính quyền số thuộc nhóm 20 tỉnh, thành phố dẫn đầu. (2) Tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế tối thiểu 55%. Xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) nằm trong nhóm 30 cả nước. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 20% GRDP của Tỉnh. (3) Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; tỷ lệ giao dịch không dùng tiền mặt đạt trên 80%; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp. (4) KHCN và ĐMST góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hóa, xã hội, con người An Giang duy trì chỉ số phát triển con người (HDI) trên 0,7. (5) Bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách địa phương hằng năm cho phát triển KHCN, ĐMST và CĐS. (6) Tổ chức KHCN, ĐMST và CĐS công lập được sắp xếp lại bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - ứng dụng - đào tạo. Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ĐMST đạt 12 người/vạn dân; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm, tỷ lệ khai thác thương mại đạt 8-10%. (7) Hạ tầng số tiên tiến, hiện đại; từng bước triển khai ứng dụng thành công một số công nghệ chiến lược, công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big data), điện toán đám mây, chuỗi khối, thông tin di động 5G, 6G và một số công nghệ mới nổi; đạt tỷ lệ 100% người sử dụng có khả năng truy nhập băng rộng cố định với tốc độ trên 1Gb/s và phủ sóng 5G toàn Tỉnh. (8) Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh tại các xã, phường, đặc khu có đủ điều kiện và đạt tối thiểu 01 đô thị. (9) Thực hiện quản lý nhà nước, cung ứng dịch vụ trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt trên toàn bộ các cơ quan trong hệ thống chính trị trên địa bàn Tỉnh. Hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số. Phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hóa số đạt mức trung bình cao trong các tỉnh. An Giang thuộc trong các tỉnh đảm bảo an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu cá nhân. (10) Tầm nhìn đến năm 2045, KHCN, ĐMST và CĐS phát triển vững chắc, góp phần đưa An Giang trở thành Tỉnh có thu nhập cao hơn so với bình quân chung của cả nước. Xếp hạng chỉ số ĐMST cấp địa phương (PII) nằm trong nhóm 20 cả nước. Có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 35% GRDP; thuộc nhóm 20 tỉnh, thành phố về ĐMST, CĐS. Tỷ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương các tỉnh, thành trong vùng; tăng dần số doanh nghiệp công nghệ số. Nông nghiệp xanh, công nghiệp công nghệ cao, y tế, giáo dục tỉnh An Giang nằm trong nhóm dẫn đầu cả nước về mặt chất lượng, ứng dụng tiện ích số và thương hiệu mạnh. Đóng góp nguồn kinh phí từ xã hội vào hoạt động KHCN đạt mức tối thiểu 60% trên tổng nguồn chi.

4. Giải pháp thực hiện đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS

Trí thức cả nước nói chung và trí thức tỉnh An Giang nói riêng đang đứng những cơ hội, thách thức trước kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam, đang đặt ra cho đội ngũ trí thức nước nhà những yêu cầu, nhiệm vụ đột phá mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, khi thế giới đang tiến hành cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, đội ngũ trí thức KHCN ở tất cả các lĩnh vực có vai trò, động lực then chốt, đi đầu trong nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KHCN, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Đội ngũ trí thức KHCN cả nước nói chung và tỉnh An Giang nói riêng tiếp tục khẳng định được vị trí, vai trò, là động lực then chốt để góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước và tỉnh An Giang đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Do đó, để đội ngũ trí thức ở tất cả các lĩnh vực tham gia đột phá phát triển, ứng dụng KHCN, ĐMST và CĐS - động lực then chốt để xây dựng và phát triển tỉnh An Giang trong kỷ nguyên mới thiết nghĩ cần thực hiện đồng bộ, toàn diện các giải pháp sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội về phát triển KHCN, ĐMST và CĐS

Các cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ, Đảng viên cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về CĐS, phát triển KHCN, ĐMST, xác định rõ trách nhiệm, chủ động triển khai thực hiện. Người đứng đầu phải trực tiếp phụ trách, chỉ đạo; cán bộ, Đảng viên phải gương mẫu thực hiện. Nhiệm vụ CĐS, phát triển KHCN, ĐMST được xác định cụ thể trong chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kết quả thực hiện là tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, đánh giá thi đua, khen thưởng hằng năm. Bố trí phù hợp số lượng cán bộ có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật trong cấp ủy các cấp. Phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong phát triển KHCN, ĐMST và CĐS.

Quán triệt tuyên truyền, giáo dục hiệu quả để nâng cao nhận thức, quyết tâm, phát triển KHCN, ĐMST thực hiện CĐS trong cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp, tạo niềm tin, khí thế mới trong xã hội. Triển khai sâu rộng phong trào “học tập số”, phổ cập, nâng cao kiến thức KHCN, kiến thức số trong cán bộ, công chức và Nhân dân; các phong trào khởi nghiệp, sáng tạo, cải tiến nâng cao hiệu quả công việc, năng suất lao động, khơi dậy tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, phát huy trí tuệ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia. Mở rộng đa dạng các hình thức tôn vinh, biểu dương, khen thưởng kịp thời, xứng đáng các nhà khoa học, nhà sáng chế, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thành tích trong phát triển KHCN, ĐMST và CĐS; trân trọng từng phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật, sáng kiến nâng cao hiệu quả công tác, hiệu suất công việc, dù là nhỏ nhất.

Hai là, tập trung hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển KHCN, ĐMST và CĐS

Kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định, cơ chế, chính sách của địa phương về KHCN, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế,… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia, phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về KHCN, ĐMST và CĐS. Đổi mới phương thức quản lý, triển khai các nhiệm vụ KHCN phù hợp với từng loại hình nghiên cứu; cải cách cơ chế quản lý tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ KHCN, ĐMST và CĐS, đơn giản hóa tối đa các thủ tục hành chính; giao quyền tự chủ trong sử dụng kinh phí, chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.

Đẩy mạnh việc hỗ trợ thành lập các tổ chức KHCN, doanh nghiệp KHCN, doanh nghiệp công nghệ cao hoạt động hiệu quả. Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo, nhất là đào tạo sau đại học. Hỗ trợ và phát triển các tổ chức KHCN công lập hoạt động hiệu quả; giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức, bộ máy, tài chính, chuyên môn; được sử dụng ngân sách Nhà nước thuê chuyên gia, sử dụng tài sản hữu hình và trí tuệ để liên kết, hợp tác KHCN với các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước theo quy định hiện hành. Thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển KHCN, ĐMST và CĐS của Tỉnh. Cơ cấu lại nguồn ngân sách chi sự nghiệp KHCN, ĐMST và CĐS bảo đảm tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải.

Ba là, tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho KHCN, ĐMST và CĐS quốc gia

Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về phát triển công nghệ và công nghiệp chiến lược; về nghiên cứu, ứng dụng KHCN trong lĩnh vực có lợi thế như nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, năng lượng tái tạo, công nghệ chế biến sâu, bảo quản nông sản, du lịch thông minh và các lĩnh vực khác như công nghệ sinh học, khám chữa bệnh, tự động hóa trong sản xuất, quản lý tài nguyên và môi trường, CĐS trong quản lý hành chính công và doanh nghiệp. Chú trọng phát triển hạ tầng năng lượng, nhất là năng lượng mới, năng lượng sạch và bảo đảm an ninh năng lượng cho phát triển KHCN, các ngành công nghiệp chiến lược. Quản lý chặt chẽ, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên khoáng sản của địa phương để phát triển KHCN, ĐMST.

Phát triển hệ thống các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm tập trung cho công nghệ chiến lược. Ưu tiên đầu tư, mở rộng các phòng thí nghiệm trọng điểm đáp ứng yêu cầu hỗ trợ các nghiên cứu và phát triển công nghệ trong lĩnh vực phân tích, kiểm nghiệm và đo lường chất lượng các sản phẩm nông sản, dược liệu,…phục vụ công tác quản lý Nhà nước và yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Trong đó, tập trung nguồn lực đầu tư, phát triển Trung tâm Công nghệ sinh học thuộc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh An Giang, sớm đưa khu thực nghiệm công nghệ sinh học, khu nông nghiệp công nghệ cao đi vào hoạt động ổn định; hiện đại hóa hệ thống phòng thí nghiệm công nghệ sinh học, các trung tâm đánh giá, kiểm định đáp ứng yêu cầu giám sát và phòng, chống dịch bệnh.

Đẩy nhanh việc triển khai và đưa vào hoạt động Khu Công nghệ thông tin tập trung hoặc hình thành phát triển Khu đô thị công nghệ số tại các xã, phường đặc khu có đủ điều kiện. Quan tâm xây dựng chương trình trọng điểm phát triển các đô thị thông minh ở tỉnh An Giang. Thúc đẩy phát triển các trung tâm khởi nghiệp ĐMST, nhất là khu vực ngoài Nhà nước, cung cấp môi trường thử nghiệm và thương mại hóa các ý tưởng khoa học. Xây dựng, triển khai cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư, xây dựng các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và phát triển KHCN; công bố danh mục các chương trình, nhiệm vụ dựa trên kết quả phát triển kinh tế số, xã hội số.

Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ số. Ban hành quy định khuyến khích đầu tư, mua, thuê các sản phẩm, dịch vụ số; chính sách đặc biệt để đào tạo, phát triển, thu hút tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hoạt động lĩnh vực chuyển đổi số, phát triển sản phẩm công nghệ số, công nghiệp an ninh mạng. Xây dựng và dùng chung các nền tảng số của Tỉnh, bảo đảm hoạt động thống nhất, liên thông của các ngành, lĩnh vực trên môi trường số và không chồng lấn, trùng lặp với các nền tảng số quốc gia do các bộ, ngành đầu tư, triển khai sử dụng toàn quốc từ Trung ương đến các địa phương. Thúc đẩy hệ sinh thái kinh tế số trên các lĩnh vực.

Phát triển hạ tầng viễn thông, Internet đáp ứng yêu cầu dự phòng, kết nối, an toàn, bền vững, mạng cáp quang băng thông rộng tốc độ cao, phủ sóng toàn Tỉnh, mạng thông tin di động 5G, 6G và các thế hệ tiếp theo. Phát triển hạ tầng vật lý số, hạ tầng tiện ích số; tích hợp cảm biến, ứng dụng công nghệ số vào hạ tầng thiết yếu. Hoàn thiện và phát huy hiệu quả của Trung tâm Tích hợp dữ liệu của Tỉnh. Xây dựng, phát huy hiệu quả dữ liệu của địa phương bảo đảm liên thông, tích hợp, chia sẻ. Phát triển mạnh mẽ ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) dựa trên dữ liệu lớn với các ngành, lĩnh vực quan trọng.

Bốn là, thu hút và trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển KHCN, ĐMST và CĐS

Tăng cường đầu tư, đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển KHCN, ĐMST và CĐS. Triển khai các chính sách của Trung ương, nghiên cứu ban hành các chính sách đặc thù của địa phương để phát triển các ngành đào tạo, thu hút sinh viên, học sinh theo học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật, ưu tiên thu hút chuyên gia về KHCN, ĐMST và CĐS, chú trọng các lĩnh vực công nghệ cốt lõi, chiến lược (bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, robot, tự động hóa, nông nghiệp công nghệ cao, chế biến sâu nông sản, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và công nghệ số,…). Tăng cường kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài Tỉnh. Xây dựng và triển khai các chính sách phát hiện và bồi dưỡng tài năng từ sớm; quy hoạch và đầu tư nâng cấp, mở rộng hệ thống trường chuyên, trường năng khiếu về khoa học tự nhiên kết hợp với doanh nghiệp, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để mở rộng cơ hội thực hành, ứng dụng; tổ chức các chương trình đào tạo cho cán bộ công chức, viên chức khu vực công, doanh nghiệp và người dân.

Kịp thời triển khai thực hiện chính sách đặc thù thu hút, tuyển dụng, đãi ngộ và trọng dụng nhân lực về nhân lực KHCN và CĐS làm việc trong các cơ quan của hệ thống chính trị. Triển khai nền tảng giáo dục, đào tạo trực tuyến, mô hình giáo dục đại học số theo hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương nhằm nâng cao năng lực số trong xã hội. Triển khai thực hiện các đề án, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong đó quan tâm, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực KHCN; các chương trình đào tạo, đào tạo nghề chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cao. Phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ then chốt; đẩy mạnh hợp tác với các đại học uy tín trong và ngoài nước; hiện đại hoá phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo. Rà soát, điều chỉnh Quy hoạch các tổ chức KHCN công lập và đổi mới nội dung hoạt động đi vào thực chất và hiệu quả.

Năm là, đẩy mạnh CĐS, ứng dụng KHCN, ĐMST trong hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an ninh

Có kế hoạch và lộ trình đưa toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị lên môi trường số, bảo đảm liên thông, đồng bộ, bí mật Nhà nước; phát triển hệ thống giám sát, điều hành thông minh nhằm tăng cường quản lý công. Đổi mới toàn diện việc giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công không phụ thuộc địa giới hành chính; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, hướng tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, cá nhân hoá và dựa trên dữ liệu; tăng cường giám sát, đánh giá và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong phục vụ Nhân dân. Có chính sách đặc thù về thu hút, tuyển dụng, giữ chân nhân lực về KHCN và CĐS làm việc trong các cơ quan của hệ thống chính trị.

Tăng cường ứng dụng công nghệ số, hình thành công dân số. Xây dựng xã hội số an toàn, lành mạnh. Phát triển văn hoá số bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, triển khai thực hiện bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng, giảm thiểu tác động tiêu cực của công nghệ số đối với xã hội. Triển khai các hệ thống và nền tảng số nhằm giám sát, thu thập dữ liệu lĩnh vực tài nguyên, môi trường của tỉnh. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ phân tích, cảnh báo thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. Bảo đảm an toàn, an ninh mạng trên nền tảng số và không gian mạng; an ninh, an toàn dữ liệu hợp pháp của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và chủ quyền an ninh dữ liệu. Từng bước ứng dụng công nghệ số trong chỉ huy, điều hành tác chiến của lực lượng vũ trang cũng như làm chủ công nghệ cao trong hoạt động quốc phòng, an ninh. Ngăn chặn hiệu quả tội phạm lĩnh vực CĐS, chống lừa đảo trực tuyến. Xây dựng, phát huy sức mạnh thế trận chiến tranh Nhân dân, thế trận lòng dân trên không gian mạng để bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động KHCN, ĐMST và CĐS trong doanh nghiệp

Triển khai những chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư cho CĐS, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Khuyến khích tinh thần khởi nghiệp về KHCN, ĐMST và CĐS, cùng với chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và thu hút các doanh nghiệp khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Xây dựng, công bố danh mục các nhiệm vụ KHCN về CĐS; đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp công nghệ số thực hiện. Nghiên cứu, hình thành ít nhất 01 Khu công nghệ thông tin tập trung theo Quy hoạch hạ tầng thông tin và truyền thông thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đảm bảo thống nhất với Quy hoạch tỉnh An Giang giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đẩy mạnh tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ trên môi trường số, bảo đảm kinh tế số các ngành, lĩnh vực; đẩy mạnh sản xuất thông minh trong các ngành, lĩnh vực: Nông nghiệp, thương mại, tài chính, giáo dục, y tế, giao thông, logistics.

Bảy là, tập trung nguồn lực vào các ngành có lợi thế, tiềm năng và tránh dàn trải

Ưu tiên nguồn lực cho một số ngành kinh tế có lợi thế và tiềm năng phát triển so với các địa phương khác trong cả nước, tránh dàn trải, kém hiệu quả và lãng phí, bao gồm giải pháp công nghệ cho những vấn đề của thực tiễn Tỉnh như khai thác sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu, nông nghiệp công nghệ cao, an ninh lương thực, khoa học về sức khỏe con người, các ngành công nghiệp 4.0. Tập trung thúc đẩy các “mũi nhọn” CĐS, đặc biệt là triển khai Đề án 06. Đẩy nhanh kết nối, chia sẻ dữ liệu quan trọng trên các lĩnh vực dân cư, tư pháp, giáo dục, ngân hàng, thuế, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai,... tạo nền tảng phát triển chính quyền số, kinh tế số, xã hội số nhằm thực hiện tốt các mục tiêu Nghị quyết 57-NQ/TW.

Tám là, tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển KHCN, ĐMST và CĐS

Tập trung đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với các địa phương, quốc gia có trình độ KHCN, CĐS phát triển, nhất là các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học (Biotechnology), dữ liệu lớn (Big data), Internet vạn vật (IoT), công nghệ lượng tử, bán dẫn, năng lượng nguyên tử, năng lượng tái tạo và các công nghệ chiến lược khác. Có chính sách mua, chuyển giao công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện của Tỉnh. Chúng ta cần phải vận dụng lợi thế của Tỉnh đi sau, người đi sau là phải biết cách “đứng trên vai của những người khổng lồ”. Tăng cường, tạo cơ chế, chính sách thông thoáng trong thu hút đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn, tạo cơ hội để doanh nghiệp trong Tỉnh tham gia “chuỗi giá trị công nghệ” của Việt Nam và toàn cầu; khuyến khích ứng dụng, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực học hỏi, tiếp thu, làm chủ, cải tiến tri thức, công nghệ của các tỉnh, thành phố có thế mạnh về công nghệ và các nước trên thế giới có hợp tác, đầu tư tại Việt Nam.

Năm 2025 là năm chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ các cấp, là năm Đảng và Nhà nước ta tiến hành công cuộc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị trong cả nước. Đất nước ta nói chung và tại tỉnh An Giang nói riêng đang đứng trước “cơ hội lớn để vươn mình”, nhưng thách thức cũng vô cùng to lớn. Chúng ta phải quyết tâm thực hiện cuộc cách mạng phát triển KHCN, ĐMST và CĐS và không để lỡ thời cơ thêm lần nữa. Phát triển KHCN, ĐMST và CĐS không chỉ là lựa chọn, mà là con đường sống còn; đội ngũ trí thức cần quyết tâm đột phá phát triển, ứng dụng KHCN, ĐMST và CĐS xem đây là động lực then chốt và lãnh đạo, quản lý các cấp cần coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt; đội ngũ trí thức cùng nhà khoa học, doanh nghiệp chung tay cống hiến, sáng tạo; Nhân dân Tỉnh nhà cần ủng hộ, đồng hành, học hỏi, nâng cao kỹ năng số để góp phần vào công cuộc đột phá phát triển KHCN, ĐMST và CĐS nhằm xây dựng, phát triển tỉnh An Giang - quê hương của Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn giàu mạnh trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo./.

Tiến sĩ Đào Thanh Hoàng
Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh