Kênh Vĩnh Tế – Kỳ công lịch sử nơi biên viễn

Quá trình đào kênh kéo dài 5 năm: 1819 – 1824 Kênh Vĩnh Tế – công trình lịch sử mang tầm vóc vĩ đại tại vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam, đã trở thành minh chứng cho sự kiên trì và sáng tạo của ông cha trong công cuộc mở đất, bảo vệ chủ quyền. Được thực hiện qua ba đợt thi công trong suốt 5 năm, kênh Vĩnh Tế không chỉ là tuyến giao thông chiến lược mà còn là biểu tượng của tinh thần bất khuất của dân tộc.

 

Đợt 1: Khởi Đào Đầy Thử Thách

Công trình đào kênh Vĩnh Tế được khởi công vào ngày rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819), với sự chỉ huy của Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại, cùng các chỉ huy khác như Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên và Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn. Ngay đợt đầu, đã có đến 5.000 nhân công được chiêu mộ trong thường dân và binh lính người Việt và 500 người khác đang phục vụ trong quân đội Uy Viễn Đồn, mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền, 1 phương gạo. Riêng Điều bát Nguyễn Văn Tồn đã huy động đến 5.000 người thuộc binh dân người Chân Lạp, mỗi tháng cấp cho mỗi người 6 quan tiền với mỗi khẩu phần là vuông gạo.

Việc đào kênh Châu Đốc - Hà Tiên lần này gặp rất nhiều trở ngại hơn so với việc đào kênh Đông Xuyên - Rạch Giá, việc huy động một lực lượng lớn dân thường và binh lính người Việt và cả người Chân Lạp để phục vụ việc đào kênh trong điều kiện thiếu thốn về mọi mặt, từ vật dụng, công cụ để đào kênh, về lương thực phục vụ nhu cầu ăn, uống và kể cả thuốc men khi những người đào kênh bị ốm đau hay gặp tai nạn trong lúc lao động, kể cả những trường hợp bị thú dữ tấn công, rắn rết cắn, muỗi mồng đầy rẫy, điều kiện khí hậu thất thường nhiều chướng khí, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ đào kênh. Công việc đào kênh khởi đầu trên phần đất cứng với 7.575 tầm (17.398m) do người Việt phụ trách đào; còn một số đường thẳng bề dài 18.704 tầm (47.887,24m), nhưng với đất dễ đào và mềm do người Chân Lạp phụ trách đào. Bề rộng của kênh là 15 tầm (38m), sâu 6 thước (1,536m). Đợt đầu của công tác đào kênh kéo dài ba tháng từ rằm tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) cho đến rằm tháng 3 năm Canh Thìn. Trong mỗi đợt đào kênh, có những đợt nhỏ được luân phiên nhau giữa những người làm xâu.Theo ghi nhận, đợt thi công này kênh đào từ Châu Đốc đến đoạn Ca Âm (Tịnh Biên ngày nay) dài khoảng hơn 20 km.

Đợt 2: Mở Rộng Tuyến Kênh

Sau hai năm gián đoạn, vào tháng 2 năm Quý Mùi (1823), kênh Vĩnh Tế được khởi công giai đoạn hai. Dưới lệnh vua Minh Mạng, Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt huy động hơn 39.000 binh dân ở thành và các trấn Vĩnh Thanh, Định Tường, đồn Uy Viễn, cùng hơn 16.000 binh dân nước Chân Lạp, mỗi tháng đều cấp tiền gạo đều như lệ năm Gia Long. Sưu dân thành Gia Định mỗi tháng tiền 6 quan, gạo 1 phương, mỗi 5.000 người đặt 150 người chức dịch, cấp tiền 1.000 quan, gạo 150 phương. Dân Chân Lạp mỗi tháng tiền 4 quan 5 tiền, gạo 1 phương, mỗi 5.000 người đặt 100 người đầu mục ốc nha bồn nha, cấp tiền 1000 quan, gạo 150 phương. Chưa được bao lâu, Lê Văn Duyệt có bệnh, vua sai Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu làm thay.

Dân binh chia làm 3 phiên để hoạt động. Nhưng hết mùa Xuân sang mùa Hè thì công tác đào kênh tiếp tục tạm hoãn vì hạn hán. Trong đợt này, ngoài sự đóng góp to lớn của Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu, còn có Thống chế Nguyễn Văn Tuyên và Thống chế Trần Công Lại phụ giúp cho Thoại Ngọc Hầu. Với lượng nhân công được huy động lớn như thế, qua 3 tháng thi công, con kênh đào được khoảng hơn 60 km, phần còn lại khoảng 1060 trượng (tương đương 3,5km). Công việc chỉ huy dân binh đào kênh Vĩnh Tế giai đoạn 2 kết thúc.

Đợt 3: Hoàn Tất Công Trình Lịch Sử

Đợt cuối cùng thực hiện vào tháng 2 năm Giáp Thân (1824), số lượng bề dài của con kênh còn lại chỉ 1.700 trượng (4.352m) kể từ cuối rạch Giang Thành trở vào. Việc đào kênh được tiến hành tích cực với sự hỗ trợ của Phó Tổng trấn Trần Văn Năng và binh dân lên đến 25.000 người, kể cả người Chân Lạp và Việt, đào bất kể ngày đêm, đến ngày mùng một tháng 5 năm 1824 hoàn thành. Kênh Vĩnh Tế đào xong, thành thần Gia Định báo về kinh. Vua Minh Mạng nói rằng: "Đào con sông ấy để trọn công trước, thực là lợi ức muôn năm vô cùng về sau. Bèn sai hữu ty dựng bia để ghi". Như vậy, bằng trí tuệ, tinh thần lao động bền bỉ, kiên gan nhưng đầy sáng tạo, ông cha ta đã tạo ra một công trình kỳ vĩ trên vùng Tây Nam biên viễn vào đầu thế kỷ XIX. Kênh Vĩnh Tế hoàn thành đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới cho công cuộc khai phá đất đai, lập nên đồn điền, làng xóm trên vùng biên giới. Đồng thời, kênh Vĩnh Tế hiện diện như chiến hào khổng lồ bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia trên tuyến biên giới Tây Nam. Như vua Minh Mạng đã nói: “Thực là quan yếu cho quốc kế biên trù”.

ảnh: Trung Hiếu

Giá Trị Lịch Sử và Tầm Quan Trọng của Kênh Vĩnh Tế

Kênh Vĩnh Tế không chỉ đóng vai trò là con đường giao thương quan trọng, hỗ trợ khai phá đất đai, mà còn là chiến hào vững chắc bảo vệ biên giới quốc gia. Công trình đã tạo nên một thời kỳ phát triển mới tại vùng biên viễn Tây Nam, giúp lập nên nhiều đồn điền, làng xóm, góp phần vào sự thịnh vượng lâu dài của vùng đất này.

Ngày nay, kênh Vĩnh Tế vẫn là biểu tượng của sự kiên định, trí tuệ, và tinh thần lao động của người Việt, nhắc nhở thế hệ sau về sự hy sinh và nỗ lực không mệt mỏi của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trích “Đề cương tuyên truyền Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) và tưởng niệm 198 năm Ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024)”

Nguồn: tuyengiaoangiang.vn