Bối cảnh lịch sử và ý nghĩa chiến lược của sự kiện đào Kênh Vĩnh Tế

Năm 1802, triều Nguyễn thành lập đã xây dựng một thiết chế quản lý đất nước thống nhất từ Bắc chí Nam. Lúc đầu, vùng đất Nam Bộ được chia thành các trấn trực thuộc phủ Gia Định[1] (thuộc trấn Biên Hòa; Phiên An (sau đổi thành Gia Định); Định Tường; Vĩnh Thanh (gồm Vĩnh Long và An giang); Hà Tiên).

Ảnh: Phan Hữu

Trên vùng đất Nam Bộ lúc bấy giờ, đường thủy vẫn là tuyến giao thông huyết mạch, căn bản phục vụ mọi hoạt động từ dân sinh đến quốc phòng, quân sự, ngoại giao. Hệ thống thủy lộ là yếu tố tiên quyết tạo nên vị trí địa chiến lược của vùng biên giới Tây Nam với các trung tâm quốc phòng - kinh tế, như: Hà Tiên, Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự, Thông Bình, Quang Hóa.

Dựa trên những đặc điểm thiên tạo và đặc điểm cư dân, kinh tế - xã hội của Nam Bộ thời bấy giờ, triều Nguyễn đã từng bước nhận thức rõ vai trò quan trọng của các vị trí tiếp giáp với lãnh thổ, lãnh hải Chân Lạp (Campuchia) và Xiêm La (Thái Lan).

Về mặt chiến lược, triều Nguyễn xác định: “Thành Gia Định làm cận biên, Châu Đốc tân cương làm viễn biên, Hà Tiên làm cực biên lam chướng”. Trong đó, Châu Đốc và Hà Tiên được xem như những trung tâm chỉ huy quốc phòng quan trọng nhất cho toàn tuyến biên giới Tây Nam của đất nước.

Vì vậy, khi cất cử Nguyễn Văn Thoại về giữ chức Trấn thủ Vĩnh Thanh vào năm 1817, vua Gia Long đã thận trọng căn dặn: “Trấn Vĩnh Thanh đất giáp nước Chân Lạp, điều cốt yếu trong việc phủ trị là sao cho trong cõi được yên, nước ngoài phải phục”.

Sự quan yếu của vùng biên giới Châu Đốc - Hà Tiên đòi hỏi một nguồn lực to lớn để gìn giữ và phát triển. Điều này càng thúc đẩy triều Nguyễn tìm kiếm các biện pháp giải quyết. Những năm cuối triều Gia Long, công cuộc khẩn hoang, lập làng trên vùng đất Nam Bộ tuy đã được xúc tiến một cách mạnh mẽ nhưng dải đất mênh mông thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên vẫn còn bỏ ngỏ.

Vấn đề thoát úng, rửa phèn vùng này trở nên cấp thiết. Đồng thời, nhu cầu kết nối các trung tâm duyên hải Tây Nam từ đạo Long Xuyên (Cà Mau), Rạch Giá, Hà Tiên với các trung tâm thuộc sông Cửu Long, Mỹ Tho, Gia Định về quốc phòng, giao thông và thương hồ cũng rất cấp bách.

Dựa trên ý tưởng quốc phòng của tiền nhân, vua Gia Long còn cho thấy sự đột phá mạnh mẽ khi muốn khơi đào dòng kênh song song với đường biên giới Chân Lạp, kết nối Châu Đốc - Hà Tiên, phục vụ công cuộc giữ nước và tăng cường nguồn lực cho vùng đất “tân cương”.

Năm 1816, triều Nguyễn cũng nhận thấy Châu Đốc là nơi quan trọng ở biên thùy nên muốn đặt đồn lớn trấn giữ. Do đó, vua Gia Long sai Phó tướng Tả quân Nguyễn Văn Xuân, Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường cùng Nguyễn Đức Sĩ trông coi công việc đắp đồn Châu Đốc nhằm bảo vệ Hà Tiên và sách ứng cho Nam Vang (Phnom Penh). Trong quá trình xây dựng đồn, triều Nguyễn hạ lệnh cho Lưu Phước Tường cùng Nguyễn Đức Sĩ đo đạc hình thế đất đai, vẽ địa đồ dâng lên.

Sau khi xem qua bản địa đồ, vua Gia Long bảo các thị thần rằng: “Đất này nay mở đường sông để đi thẳng tới Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn”. Có thể thấy, ý tưởng đào kênh Vĩnh Tế đã khởi phát một cách rõ nét nhất vào thời điểm này.

Sau khi kênh Thoại Hà ra đời, vua Gia Long thấy rằng đã tới lúc thích hợp để tiến hành khơi đào tuyến thủy lộ kết nối Châu Đốc với Hà Tiên. Người được vua Gia Long “chọn mặt gửi vàng” giao phó trọng trách không ai khác, chính là quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại. Đầu năm 1819, triều Nguyễn xuống dụ cho Mạc Công Du xem xét, đo đạc từ Hà Tiên đến sông Châu Đốc rồi vẽ bản đồ dâng lên.

Tháng 9 Kỷ Mão (1819), vua Gia Long đã ra lệnh Trấn thủ Vĩnh Thanh Nguyễn Văn Thoại làm Đổng lý, đào kênh từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Trước khi ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định và Trấn thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại chuẩn bị khởi công, vua Gia Long ra chiếu dụ dân Vĩnh Thanh như sau: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của nhà nước, mưu hoạch về biên thùy, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi dẫu ngày nay khó nhọc, mà thực có lợi cho muôn đời. Vậy nên bảo nhau, đừng sợ khó nhọc".

Sau đó vua Gia Long chiếu dụ cho vua Chân Lạp: "Nước ngươi giáp giới với Vĩnh Thanh. Nay đào sông này, không những lợi ích cho người Việt, mà còn lợi ích cho nước ngươi vô cùng. Vương nên họp Nhân dân, bảo cho biết ý nhọc nhằn một lần mà nhàn mãi mãi, khiến dân vui vì làm việc, cho chóng thành công. Quan phiên trở xuống ai không tuân lệnh, cho Đồng Phù trị theo quân pháp".

Có thể thấy, từ hơn 200 năm trước, với tầm nhìn chiến lược, triều Nguyễn do vua Gia Long đứng đầu đã mở đường cho phương cách giữ nước, an dân đặc biệt trên vùng Tây Nam biên viễn. Chủ trương này đã tạo nên công trình kỳ vĩ bậc nhất ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XIX - kênh Vĩnh Tế.

Trích “Đề cương tuyên truyền Lễ kỷ niệm 200 năm hoàn thành kênh Vĩnh Tế (1824 - 2024) và tưởng niệm 198 năm Ngày mất bà Châu Thị Tế (1826 - 2024)” 

Nguồn: tuyengiaoangiang.vn