(Cổng TTĐT tỉnh AG)- Trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, kinh tế tư nhân (KTTN) ở nước ta đã không ngừng phát triển, đóng góp ngày càng to lớn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) của đất nước.
Ngày 03/6/2017, tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 10-NQ/TW “về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” (Nghị quyết số 10-NQ/TW) và nội dung Nghị quyết đã khẳng định: “KTTN là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với KTTN là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Đây là sự khẳng định quan trọng, định hướng chiến lược của Trung ương Đảng về vị trí, vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế nước ta. Đồng thời, Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh quan điểm, tư duy nhất quán đối với việc phát triển KTTN, coi “phát triển KTTN lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta và đây còn là một phương sách quan trọng để huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển và giải phóng sức sản xuất.

Sau gần 40 năm đổi mới, KTTN nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khu vực KTTN hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 05 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, KTTN hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Hầu hết doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; phần lớn có năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh chưa cao; tư duy kinh doanh thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kết nối với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng chủ yếu là do: (1) Tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN trong nền kinh tế còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp yêu cầu phát triển; (2) Thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; (3) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức; (4) Quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. KTTN còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận; chi phí kinh doanh còn cao. Nhằm hiện thực hoá mục tiêu phát triển đất nước như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra và đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của KTTN, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là cần thiết và cấp bách. Nhận thấy được sự cần thiết, quan trọng của khu vực KTTN đóng góp vào nền kinh tế quốc gia - động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước ta trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, ngày 04/5/2025, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển KTTN (Nghị quyết số 68-NQ/TW) với những định hướng tầm chiến lược, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, tổ chức thực hiện rất cụ thể, đồng bộ và lộ trình hết sức rõ ràng.
Tỉnh An Giang chỉ đạo, điều hành phát triển KTTN trong thời gian qua
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, của Chính phủ, Tỉnh An Giang xác định việc phát triển KTTN là một lĩnh vực quan trọng, với mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, góp phần vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. An Giang tập trung vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, đồng thời giảm bớt các thủ tục hành chính.
Để lãnh đạo, chỉ đạo việc phát triển KTTN, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 38-KH/TU, ngày 30/11/2017 (Kế hoạch số 38-KH/TU), trong đó, xác định rõ lộ trình gắn với phân công trách nhiệm cho các tổ chức, đơn vị thực hiện phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và điều kiện cụ thể của từng ngành, lĩnh vực, địa phương và đơn vị trong toàn tỉnh để phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Song song đó, để triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển KTTN, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số 245-KH/TU, ngày 30/5/2025 về thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW. Trong Kế hoạch trên, Tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển KTTN đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 như sau: Đến năm 2030: (1) KTTN thực sự trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế tỉnh An Giang, góp phần phát triển KT-XH nhanh, bền vững, nâng cao tính tự chủ, tự cường và hội nhập, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chương trình hành động số 32-CTr/TU, ngày 24/02/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 57-NQ-TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII về đột phá và phát triển khoa học (KHCN), công nghệ, đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) quốc gia (Nghị quyết số 57-NQ-TW), Kế hoạch số 238-KH/TU, ngày 16/5/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 59-NQ TW, ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị khóa XIII về hội nhập quốc tế trong tình hình mới trên địa bàn tỉnh An Giang, Quy hoạch tỉnh An Giang thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1369/QD-TTg, ngày 15/11/2023 và các chủ trương, đường lối khác của Đảng ta. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân của KTTN đạt khoảng 10-12%/năm, tỷ trọng đóng góp của khu vực KTTN trong cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bản tỉnh đạt từ 55-58% GRDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm; (2) Phấn đấu có khoảng 11.000-12.000 doanh nghiệp hoạt động, trong đó có 100-120 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn, 10 doanh nghiệp đầu tàu, dẫn dắt trên các sản phẩm chủ lực của tỉnh; (3) Nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh khu vực KTTN của tỉnh. Hình thành doanh nghiệp quy mô lớn, sản phẩm có thương hiệu được bảo hộ và có sức cạnh tranh trên thị trường, kinh doanh bền vững; (4) Tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và cải cách hành chính, phấn đấu đưa các Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index) và Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) nằm trong nhóm 15 tỉnh, thành phố đứng đầu cả nước. Tầm nhìn đến năm 2045: KTTN trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, có năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045 toàn tỉnh có khoảng 27.000-30.000 doanh nghiệp, trong đó có 200-300 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn.
Bên cạnh đó, tại Kế hoạch số 637/KH-UBND nêu trên, đối tượng được hỗ trợ là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, đáp ứng các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được quy định tại Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn khác có liên quan. Các hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh, có nhu cầu phát triển chuyển đổi thành doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Trong đó, tập trung cụ thể hóa việc triển khai thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp CĐS, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động KHCN, ĐMST và CĐS trong doanh nghiệp được đề ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW. Theo Kế hoạch trên, tỉnh hỗ trợ công nghệ cho DNNVV như: (1) Hỗ trợ tối đa 50% giá trị hợp đồng tư vấn giải pháp CĐS cho doanh nghiệp về quy trình kinh doanh, quản trị, sản xuất, công nghệ và chuyển đổi mô hình kinh doanh nhưng không quá 50 triệu đồng/hợp đồng/năm đối với doanh nghiệp nhỏ và không quá 100 triệu đồng/hợp đồng/năm đối với doanh nghiệp vừa; (2) Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ, ứng dụng các giải pháp trên nền tảng số: Hỗ trợ tối đa 50% chi phí cho doanh nghiệp thuê, mua các giải pháp CĐS để tự động hóa, nâng cao hiệu quả quy trình kinh doanh, quản trị, sản xuất, công nghệ trong doanh nghiệp và chuyển đổi mô hình kinh doanh nhưng không quá 20 triệu đồng/năm đối với doanh nghiệp siêu nhỏ; không quá 50 triệu đồng/năm đối với doanh nghiệp nhỏ và không quá 100 triệu đồng/năm đối với doanh nghiệp vừa; (3) Hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận mạng lưới tư vấn viên để được hỗ trợ sử dụng dịch vụ tư vấn về tài chính, kế toán, kiểm toán, xây dựng thương hiệu và các nội dung khác liên quan tới hoạt động sản xuất - kinh doanh (SXKD) của doanh nghiệp; (4) Hỗ trợ 100% giá trị hợp đồng tư vấn nhưng không quá 50 triệu đồng/năm/doanh nghiệp đối với doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc không quá 70 triệu đồng/năm/doanh nghiệp đối với doanh nghiệp siêu nhỏ do phụ nữ làm chủ, doanh nghiệp siêu nhỏ sử dụng nhiều lao động nữ và doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp xã hội.
Sự đóng góp của khu vực KTTN vào nền kinh tế quốc gia
Trong giai đoạn từ 2018-2025, cộng đồng các doanh nghiệp, cơ sở/hộ sản xuất kinh doanh tại An Giang không ngừng phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao uy tín, thương hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển KT-XH, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đóng góp vào các hoạt động an sinh xã hội, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng của tỉnh An Giang đạt hơn 6,14% trong 08 năm liên tục. Theo UBND tỉnh An Giang, năm 2024, tỉnh có hơn 8.246 doanh nghiệp, cơ sở/hộ sản xuất kinh doanh đang hoạt động với tổng vốn đăng ký hơn 80.429 tỷ đồng, tạo việc làm cho hơn 25.097 lao động, doanh thu hàng năm đạt hơn 52.932 tỷ đồng. Trong 5 tháng đầu năm 2025, tỉnh có 458 doanh nghiệp đăng ký thành lập, với tổng vốn đăng ký là 2,917 tỷ đồng và số doanh nghiệp giải thể là 104 doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tỉnh đã và đang khẳng định vai trò là động lực quan trọng để phát triển kinh tế địa phương. Sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tạo việc làm, cải thiện đời sống Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng của tỉnh trong giai đoạn 2021-2023 (ước đạt 5,08%). Tổng thu ngân sách từ kinh tế địa bàn giai đoạn 2021-2023 ước đạt 22.055 tỷ đồng và tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 03 năm 2021-2023 ước đạt 98.168 tỷ đồng. Theo Báo cáo của UBND tỉnh An Giang, tình hình phát triển KT-XH năm 2024 của tỉnh tăng trưởng khá tốt trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp. UBND tỉnh An Giang đã bám sát tình hình thực tiễn, tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt, đồng bộ, linh hoạt, có hiệu quả, trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp phát triển KT-XH của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và của Tỉnh ủy. Kết quả, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2024 ước đạt 7,16%; GRDP bình quân đầu người đạt 66,24 triệu đồng/năm; tổng thu ngân sách ước đạt 8.391 tỷ đồng; tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.220,6 triệu USD; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 47.890 tỷ đồng, tăng 21,91%. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,67%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,73%; khu vực dịch vụ tăng 8,34%; thuế trừ trợ cấp tăng 2,51%. Về cơ cấu kinh tế: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 35,60%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 15,80%; khu vực dịch vụ chiếm 45,29%; thuế sản phẩm trừ trợ giá sản phẩm chiếm 3,31%.
Song song đó, công tác tái cơ cấu doanh nghiệp được lãnh đạo tỉnh luôn quan tâm, thực hiện tốt, nhất là việc kiểm tra, giám sát tình hình SXKD của các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước, đảm bảo việc bảo toàn, phát triển vốn; đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách Nhà nước đều tăng. Riêng các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, tình hình SXKD đạt hiệu quả cao hơn, tăng tính minh bạch, lợi nhuận hàng năm đều tăng.
Sau 06 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW, tỉnh từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực KTTN trên địa bàn tỉnh và khu vực KTTN có đóng góp lớn trong GRDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc khác, khu vực KTTN đã giải quyết việc làm cho xã hội rất tốt, đến 6/2025, lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế khoảng hơn 904 ngàn người, trong đó lao động đang làm việc trong khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 23,8%, dịch vụ chiếm 46,69%. UBND tỉnh An Giang đã tập trung thúc đẩy doanh nghiệp, cơ sở/hộ sản xuất kinh doanh đổi mới sáng tạo, đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất và đã hỗ trợ hơn 51 dự án thuộc lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ứng dụng đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và đến 12/2024 đã cấp hơn 100.000 tem “Nhãn hiệu chứng nhận An Giang” để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cơ sở/hộ sản xuất kinh doanh được trao quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể của tỉnh An Giang.
Giải pháp phát triển KTTN - động lực quan trọng để phát triển KT-XH
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, khu vực KTTN đã được Đảng, Nhà nước định hướng, phát triển để đóng góp chung vào nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, khu vực KTTN phát triển vẫn chưa chưa xứng với vị thế, vai trò, tiềm năng trong thời gian qua. Để khu vực KTTN tại tỉnh An Giang phát triển - động lực quan trọng để phát triển KT-XH của tỉnh trong kỷ nguyên mới thiết nghĩ cần quan tâm, thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây theo chỉ đạo của UBND tỉnh:
Thứ nhất, đổi mới tư duy, thống nhất cao về nhận thức và hành động, khơi dậy niềm tin, khát vọng dân tộc, tạo xung lực mới, khí thế mới để phát triển KTTN
Tập trung tuyên truyền trong cả hệ thống chính trị nhằm thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia và của tỉnh; là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của tỉnh, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững.
Tổ chức triển khai chương trình tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng về nội dung Nghị quyết số 138/NQ-CP của Chính phủ về Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển KTTN và vị trí, vai trò của KTTN theo hướng: đa dạng hóa các hình thức, phương thức tuyên truyền; cụ thể hóa nội dung tuyên truyền cho từng nhóm đối tượng. Tập trung công tác tuyên truyền về phát triển KTTN theo hướng đa dạng về hình thức. Trong đó, xây dựng các chương trình trên đài truyền hình, phát thanh, trên các mạng xã hội, báo điện tử để khơi dậy tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KTTN.
Từng cơ quan, đơn vị, địa phương có kế hoạch nhằm nâng cao nhận thức, khơi dậy tinh thần làm giàu chính đáng cho từng cá nhân, gia đình và xã hội.
Xây dựng kế hoạch triển khai với các mục tiêu được lượng hóa cụ thể; giao trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, đơn vị quán triệt toàn thể công chức, viên chức, người lao động thay đổi tư duy, nhận thức, hành động, đối xử công bằng, bình đẳng với KTTN, xây dựng mối quan hệ giữa chính quyền và doanh nghiệp cởi mở, thân thiện, đồng hành, liêm chính, kiến tạo phát triển.
Thứ hai, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của KTTN
Một là, đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, chính sách.
Quán triệt toàn thể công chức, viên chức, người lao động đổi mới mạnh mẽ tư duy hành chính từ “kiểm soát” sang “đồng hành”, coi doanh nghiệp là đối tượng “phục vụ” thay vì đối tượng “quản lý”, đảm bảo nguyên tắc “nói đi đôi với làm”, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị”; nghiêm cấm lạm dụng quyết định hành chính, cơ chế “xin-cho”, hành vi bảo hộ cục bộ ngành, địa phương trong xây dựng và tổ chức thực thi chính sách, pháp luật; thống nhất trong thực thi chính sách giữa tỉnh và địa phương, giữa các địa phương với nhau.
Tổ chức xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật công bằng, minh bạch theo cơ chế thị trường, không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực vốn, đất đai, tài nguyên, tài sản, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực tài nguyên khác.
Nâng cao chất lượng công tác thực thi và áp dụng pháp luật; tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền của địa phương theo luật định kết hợp với các cơ chế, chính sách của Trung ương để tạo hành lang pháp lý ổn định cho việc vận hành nền kinh tế của tỉnh. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản, chậm cụ thể hóa trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.
Xây dựng và triển khai kế hoạch rà soát các văn bản quy phạm pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa bàn quản lý để xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý nhằm loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Xây dựng nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Hiện đại hoá quản trị công, quản trị dựa trên dữ liệu. Nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, hướng tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, cá nhân hoá và dựa trên dữ liệu để đáp ứng tốt hơn cho yêu cầu phục vụ người dân, doanh nghiệp. Triển khai mạnh mẽ việc cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Ứng dụng triệt để CĐS nhằm cắt giảm tối đa thời gian xử lý thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ pháp luật và điều kiện kinh doanh trong các quy định về gia nhập, rút lui khỏi thị trường, đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng, thuế, hải quan, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn,... Triển khai cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Trong năm 2025-2026, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu và lộ trình quy định tại Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động SXKD năm 2025-2026.
Xây dựng kế hoạch rà soát điều kiện đầu tư kinh doanh để sửa đổi hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi nhằm chuyển toàn bộ các điều kiện kinh doanh, giấy phép, chứng nhận sang thực hiện công bố và hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế.
Xây dựng chuyên mục riêng tại trang, cổng thông tin điện tử của đơn vị để tiếp thu, kịp thời giải quyết các vướng mắc, phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Rà soát các chính sách, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp để sửa đổi hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi theo hướng: (i) đơn giản hóa tối đa hồ sơ, quy trình, thủ tục hỗ trợ; (ii) tăng định mức và tỷ lệ hỗ trợ tiệm cận với thực tế thị trường; (iii) đảm bảo bố trí đủ nguồn lực hỗ trợ; (iv) khuyến khích các hiệp hội, trường đại học,... tham gia triển khai thực hiện các chương trình hỗ trợ.
Trong kế hoạch phát triển KT-XH, đưa nhiệm vụ phát triển KTTN là một trong những nội dung quan trọng trong kế hoạch phát triển KT-XH của các Sở, ban, ngành, địa phương hằng năm và 05 năm; chủ động bố trí, lồng ghép kinh phí hoặc tổng hợp, đề nghị cấp có thẩm quyền bố trí kinh phí để triển khai hỗ trợ KTTN.
Hai là, bảo đảm và bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền tài sản, quyền cạnh tranh bình đẳng và bảo đảm thực thi hợp đồng của KTTN
Trên cơ sở các chủ trương, hướng dẫn và cơ chế đặc thù của Trung ương, tập trung tháo gỡ các vướng mắc pháp lý để xử lý các dự án, hợp đồng tồn đọng kéo dài nhiều năm, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực xã hội, cản trở quá trình phát triển của các doanh nghiệp tư nhân, làm chậm quá trình phát triển KT-XH của tỉnh.
Rà soát, phân loại đối tượng kiểm tra; chấm dứt tình trạng kiểm tra chồng chéo, trùng lắp, kéo dài về cùng một nội dung, lĩnh vực; số lần kiểm tra tại doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh bao gồm cả kiểm tra liên ngành không được quá 01 lần/năm, trừ trường hợp cần kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng. Công bố công khai kế hoạch kiểm tra trên cổng thông tin để cộng đồng doanh nghiệp, hộ kinh doanh biết, phối hợp thực hiện. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra trực tuyến, từ xa; ưu tiên kiểm tra dựa trên các dữ liệu điện tử, giảm tối đa kiểm tra trực tiếp. Xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Từng bước xây dựng hệ thống dữ liệu và công cụ trí tuệ nhân tạo cảnh báo sớm về các nguy cơ vi phạm pháp luật. Ứng dụng mạnh mẽ CĐS trong hoạt động thanh tra, kiểm tra. Triển khai thanh tra, kiểm tra trực tuyến, ưu tiên thanh tra, kiểm tra từ xa dựa trên các dữ liệu điện tử, giảm thanh tra, kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Miễn kiểm tra thực tế đối với các doanh nghiệp tuân thủ tốt quy định pháp luật.
Xây dựng, công bố tại trang, cổng thông tin của đơn vị công cụ, giải pháp cảnh báo sớm cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh về các nguy cơ vi phạm pháp luật trên cơ sở tích hợp dữ liệu quản lý, cảnh báo từ các cơ quan quản lý nhà nước.
Quyết liệt đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, vi phạm bản quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh đúng pháp luật.
Thứ ba, tạo thuận lợi cho KTTN tiếp cận các nguồn lực về đất đai, vốn, nhân lực chất lượng cao
Một là, tăng cường cơ hội tiếp cận đất đai, mặt bằng SXKD cho KTTN
Kịp thời công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn; tích cực phối hợp với tổ chức chính trị, xã hội hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác giải phóng mặt bằng.
Xây dựng và trình HĐND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các khu chức năng khu kinh tế cửa khẩu thuộc thẩm quyền của địa phương, đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản xuất kinh doanh công nghiệp, đẩy mạnh thu hút đầu tư.
Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án vướng thủ tục pháp lý, chậm tiến độ, đặc biệt là các dự án bất động sản và các dự án lớn của tỉnh. Đưa vào khai thác nguồn lực đất đai bị lãng phí, đất công, trụ sở cơ quan không sử dụng. Nghiên cứu ban hành và triển khai cơ chế, chính sách theo thẩm quyền cho phép để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo thuê nhà, đất là tài sản công chưa sử dụng hoặc không sử dụng tại địa phương. Tận dụng tối đa các nguồn lực để thúc đẩy phát triển KT-XH của tỉnh.
Triệt để ứng dụng CĐS để cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình trong thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai, giảm tối thiểu 30% thời gian giải quyết thủ tục thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, doanh nghiệp.
Khẩn trương rà soát, thống nhất phương án xử lý đối với nhà, đất là tài sản công chưa sử dụng hoặc không sử dụng tại địa phương để cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo thuê phục vụ SXKD theo quy định của pháp luật về đất đai.
Hai là, đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho KTTN
Đẩy mạnh triển khai Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (kể cả sau khi sửa đổi, bổ sung), chương trình hỗ trợ của ngành cho đối tượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong đó tập trung vào các hoạt động nâng cao năng lực quản trị, xây dựng hệ thống tài chính minh bạch, chuẩn mực, chuẩn hóa chế độ kế toán, kiểm toán,... để tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính.
Hoàn thiện mô hình hoạt động và tổ chức bộ máy Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương nhằm đảm bảo tạo được cơ chế huy động đủ vốn cho quỹ hoạt động. Nghiên cứu ban hành và triển khai các cơ chế, chính sách ưu đãi để huy động vốn điều lệ cho Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa phương để hỗ trợ doanh nghiệp triển khai thực hiện các dự án và hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho KTTN
Chủ động huy động các nguồn lực hợp pháp để triển khai các chương trình đào tạo, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nhằm phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh phù hợp định hướng phát triển KT-XH của địa phương.
Chủ động huy động, lồng ghép, bố trí nguồn lực để tổ chức triển khai chương trình đào tạo, bồi dưỡng giám đốc điều hành tại địa phương; huy động các doanh nhân thành đạt tham gia đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho học viên.
Xây dựng kế hoạch phối hợp triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 10.000 giám đốc điều hành cho các doanh nghiệp địa phương; huy động các doanh nhân thành đạt tham gia đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho đội ngũ doanh nhân trong tỉnh.
Thứ tư, thúc đẩy KHCN, ĐMST, CĐS, chuyển đổi xanh, kinh doanh hiệu quả, bền vững trong KTTN
Triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 181/KH-UBND ngày 15/02/2025 triển khai thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ về thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW trên địa bàn tỉnh (gồm các kế hoạch sửa đổi, bổ sung có liên quan đến Nghị quyết số 57-NQ/TW).
Căn cứ vào tình hình, nhu cầu thực tế tại địa phương, bố trí nguồn lực để đầu tư, phát triển các trung tâm ĐMST phục vụ ươm tạo, phát triển và chuyển giao công nghệ, thử nghiệm chính sách mới, đặc thù nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh ĐMST, khởi nghiệp.
Ưu tiên nguồn lực để hỗ trợ đầu tư phát triển các trung tâm ĐMST phục vụ ươm tạo phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm, phát triển và chuyển giao các công nghệ nhằm hỗ trợ doanh nghiệp ĐMST, khởi nghiệp.
Thứ năm, tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI
Đẩy mạnh triển khai Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các chính sách hỗ trợ của các ngành, lĩnh vực để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao năng lực để kết nối với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI.
Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên, mũi nhọn, nền tảng. Tích cực đàm phán với chủ đầu tư các dự án FDI lớn để có kế hoạch sử dụng chuỗi cung ứng nội địa ngay từ giai đoạn phê duyệt dự án. Khuyến khích các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đầu chuỗi giá trị tích cực tham gia vào các chương trình cấp tín dụng theo chuỗi cung ứng theo lĩnh vực, địa bàn quản lý.
Nâng cao chất lượng các dịch vụ tư vấn, xúc tiến thương mại để kết nối các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa tại các cụm công nghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu trong tỉnh.
Thứ sáu, hình thành và phát triển nhanh các doanh nghiệp vừa và lớn, tập đoàn KTTN
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty trong và ngoài nước có uy tín, có năng lực tài chính đầu tư các dự án lớn trên địa bàn tỉnh. Tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2026-2030 để thu hút các dự án đầu tư lớn, có tính động lực; quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chế biến nâng cao giá trị sản phẩm.
Tăng cường công tác hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp/nhà đầu tư đang đầu tư triển khai các dự án tại An Giang.
Hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp có quy mô lớn, có khả năng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, khẳng định vị trí của doanh nghiệp địa phương tại thị trường trong nước và khu vực. Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hóa gắn với tỉnh An Giang, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước thông qua chương trình xúc tiến thương mại.
Bố trí, huy động, lồng ghép nguồn lực, tham gia triển khai có hiệu quả Chương trình phát triển 1.000 doanh nghiệp tiêu biểu, tiên phong, Chương trình vươn ra thị trường quốc tế theo lĩnh vực, địa bàn quản lý để hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và lớn, tập đoàn KTTN.
Thứ bảy, đề cao đạo đức kinh doanh, phát huy trách nhiệm xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nhân tham gia quản trị đất nước
Thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức cho đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trung thực, thanh liêm, có đạo đức, văn hóa kinh doanh gắn với bản sắc dân tộc, có trách nhiệm xã hội, có ý thức bảo vệ môi trường; thượng tôn pháp luật, có hoài bão, khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, thịnh vượng, nâng cao vị thế và hình ảnh doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam.
Huy động, khuyến khích các doanh nhân thành đạt tham gia các hoạt động chia sẻ kinh nghiệm, truyền cảm hứng, đào tạo các thế hệ doanh nhân trẻ để nuôi dưỡng và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, nhân rộng các mô hình, tấm gương điển hình trong SXKD.
Tổ chức các sự kiện, tuần lễ doanh nghiệp nhằm tôn vinh, động viên và lan tỏa tinh thần khởi nghiệp kinh doanh, tinh thần doanh nhân tới cộng đồng; kiến nghị xử lý hoặc xử lý theo thẩm quyền những doanh nhân, doanh nghiệp vi phạm đạo đức, văn hóa kinh doanh làm ảnh hưởng tới hình ảnh của doanh nghiệp, doanh nhân của tỉnh.
Chủ động phát hiện, đề xuất các doanh nhân xuất sắc, có tâm, có tầm tham gia bộ máy lãnh đạo của Nhà nước.
Thường xuyên quán triệt cán bộ, công chức, viên chức, người lao động chủ động, tận tụy giải quyết các vấn đề vướng mắc cho doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; kịp thời báo cáo cấp trên để xử lý, giải quyết đối với những vấn đề vượt thẩm quyền; xây dựng mối quan hệ giữa chính quyền với doanh nghiệp chặt chẽ, thực chất, chia sẻ, cởi mở, chân thành.
Thứ tám, cải thiện môi trường kinh doanh, hoàn thiện cơ chế, chính sách về thanh tra, kiểm tra, cấp phép, chứng nhận, cạnh tranh, phá sản doanh nghiệp
Chậm nhất ngày 31/12/2025, hoàn thành việc rà soát, loại bỏ những điều kiện kinh doanh không cần thiết, quy định chồng chéo, không phù hợp, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân; thực hiện giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và tiếp tục cắt giảm mạnh trong những năm tiếp theo.
Ứng dụng triệt để CĐS nhằm cắt giảm tối đa thời gian xử lý thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ pháp luật và điều kiện kinh doanh trong các quy định về gia nhập, rút lui khỏi thị trường, đất đai, quy hoạch, đầu tư, xây dựng, thuế, hải quan, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn,... Triển khai cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Đảm bảo hoàn thành các mục tiêu và lộ trình quy định tại Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025 của Chính phủ về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động SXKD năm 2025-2026.
Khẩn trương rà soát điều kiện đầu tư kinh doanh để sửa đổi hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi nhằm chuyển căn bản các điều kiện kinh doanh dưới hình thức giấy phép, chứng nhận sang thực hiện công bố điều kiện kinh doanh và nâng cao hiệu quả công tác hậu kiểm, trừ một số ít lĩnh vực bắt buộc phải thực hiện thủ tục cấp phép theo quy định và thông lệ quốc tế, hoàn thành trong năm 2025 và 2026.
Xây dựng chuyên mục riêng tại trang, cổng thông tin điện tử của đơn vị để tiếp thu, kịp thời giải quyết các vướng mắc, phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hoàn thành trong năm 2025.
Rà soát, phân loại đối tượng kiểm tra; chấm dứt tình trạng kiểm tra chồng chéo, trùng lắp, kéo dài về cùng một nội dung, lĩnh vực; số lần kiểm tra tại doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh bao gồm cả kiểm tra liên ngành không được quá một lần một năm, trừ trường hợp cần kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng.
Đối với cùng một nội dung quản lý nhà nước, trường hợp đã tiến hành hoạt động thanh tra thì không thực hiện hoạt động kiểm tra hoặc đã tiến hành hoạt động kiểm tra thì không thực hiện hoạt động thanh tra doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong cùng một năm, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng.
Xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Công bố công khai kế hoạch kiểm tra trên cổng thông tin để cộng đồng doanh nghiệp, hộ kinh doanh biết, phối hợp thực hiện. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra trực tuyến, từ xa; ưu tiên kiểm tra dựa trên các dữ liệu điện tử, giảm tối đa kiểm tra trực tiếp.
Xây dựng, công bố tại trang, cổng thông tin của đơn vị công cụ, giải pháp cảnh báo sớm cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh về các nguy cơ vi phạm pháp luật trên cơ sở tích hợp dữ liệu quản lý, cảnh báo từ các cơ quan quản lý nhà nước.
Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị quyết liệt đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái, hàng lậu, vi phạm bản quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh đúng pháp luật.
Thứ chín, hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuê nhà, đất là tài sản công
Kịp thời công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn; tích cực phối hợp với tổ chức chính trị, xã hội hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác giải phóng mặt bằng.
Triệt để ứng dụng CĐS để cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình trong thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai, giảm tối thiểu 30% thời gian giải quyết thủ tục thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, doanh nghiệp.
Rà soát, trình cấp thẩm quyền ban hành danh mục tài sản công cho thuê và quy định về tiêu chí, mức hỗ trợ, hình thức hỗ trợ, trình tự, thủ tục cho thuê đối với từng loại tài sản và thực hiện công bố công khai trên trang thông tin điện tử của địa phương, hoàn thành trong năm 2025-2026 theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ban hành danh mục tài sản công cho thuê và quy định về tiêu chí, mức hỗ trợ, hình thức hỗ trợ, trình tự, thủ tục cho thuê đối với từng loại tài sản và thực hiện công bố công khai trên trang thông tin điện tử của địa phương, hoàn thành trong năm 2025-2026.
Căn cứ vào tình hình thực tế và khả năng cân đối ngân sách địa phương, chủ động bố trí ngân sách địa phương để hỗ trợ một phần chi phí đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ; ban hành quy định về nguyên tắc, tiêu chí, định mức hỗ trợ đầu tư và xác định diện tích đất đã đầu tư hạ tầng của khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ dành cho doanh nghiệp công nghệ cao thuộc khu vực KTTN, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo thuê, thuê lại.
Ban hành quyết định về mức giảm tiền thuê lại đất cho doanh nghiệp công nghệ cao thuộc khu vực KTTN, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ.
Tóm lại, muốn đột phá và phát triển khu vực KTTN tại An Giang trong hiện tại và những năm tiếp theo, thiết nghĩ cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện các giải pháp nêu trên nhưng cần “làm ngay, từng bước, chắc chắn”. Phát triển khu vực KTTN tại An Giang “là cơ hội, chìa khóa” để hiện thực mục tiêu phát triển “KTTN là một động lực quan trọng để phát triển KT-XH. Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể cùng với KTTN là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng XHCN” nhằm góp phần đưa Nghị quyết số 68-NQ/TW của Trung ương Đảng vào cuộc sống, góp phần thực hiện tốt chủ trương của Trung ương Đảng mong muốn là “phát triển KTTN là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế của Việt Nam”, qua đó góp phần phát triển tỉnh An Giang trong kỷ nguyên mới giai đoạn hiện tại và những năm tiếp theo./.
Tiến sĩ Đào Thanh Hoàng
Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh An Giang